VIÊM NƯỚU
A-Mô bệnh học:
Người ta nhận thấy những thay đổi bệnh lý dẫn đến viêm nướu thường kết hợp với sự hiện diện của vi khuẩn ở trong khe nướu.Những vi khuẩn có khả năng tạo ra những sản phẩm gây hư hỏng cho các tế bào biểu mô và mô liên kết,các chất gian bào như collagen,chất căn bản…
Qúa trình phát triển nướu viêm chia làm 3 giai đoạn,từ giai đoạn trước chuyển sang giai đoạn sau không có ranh giới rõ rệt.
-Giai đoạn 1:những thay đổi ở các mao mạch thường là tiềm ẩn.Phản ứng của các mao mạch nhỏ chủ yếu là sự giãn nở và gia tăng tuần hoàn máu.Các mao mạch giãn nở,các bạch cầu trung tính bám vào các thành mạchXảy ra khoảng 1 tuần sau khi có sự tích tụ của mảng bám vi khuẩn.
-Giai đoạn 2:đánh dấu bằng sự thâm nhiễm của những bạch cầu trong mô liên kết ở sát dưới biểu mô bám dính phần lớn là những Lympho bào(75%),một số ít bạch cầu trung tính,đại thực bào,tương bào và dưỡng bào.Chất collagen bị phá hủy đến 70%,bắt đầu bằng nhóm dây chằng nha chu:nhóm vòng và nhóm răng nướu.Những bạch cầu đa nhân đa hình(PMN) xuyên mạch,di chuyển bằng hóa ứng động đến lớp tế bào biểu mô và di chuyển vào khe nướu(bây giờ là túi nha chu)để thực bào.
-Giai đoạn 3:nướu viêm mãn,những mạch máu trở nên sưng phồng,sung huyết,giảm oxy huyết tại chổ.Gia tăng số lượng tương bào,do đó tương bào trở thành tế bào viêm nổi bật nhất.Những lysosome chứa những acid hydrolaza có thể phá hủy những thành phần cấu tạo của mô.Tế bào ở biểu mô bám dính tăng sản tạo thành những nhú hoặc gai lấn vào mô liên kết(giống như những ngón tay),trong mô liên kết những sợi collagen cũng bị phá hủy,nguyên nhân là collagenaza,yếu tố này thường xuyên có mặt ở nướu lành mạnh và cũng có thể sản xuất bởi một vài loại vi khuẩn miệng hay bởi các PMN.Page và Schroeder gọi giai đoạn này là giai đoạn “sang thương xác lập”.
B-Dấu chứng của nướu viêm:
1-Chảy máu nướu:
Hai triệu chứng đầu tiên của viêm nướu trước khi viêm nướu được xác lập là (1)dịch nướu tiết ra nhiều hơn,(2)xuất huyết ở khe nướu khi thăm dò bằng dụng cụ.Do đó chảy máu nướu là dấu chứng có tầm quang trọng đặc biệt trong chẩn đoán sớm và giúp công việc dự phòng để bệnh viêm nướu không tiến triển nặng hơn.
Do nguyên nhân tại chổ và nguyên nhân toàn thân.
a-Nguyên nhân tại chổ:
a1-Chảy máu nướu mãn tính và hay tái phát:do viêm mãn tính,tái phát mỗi khi có sự va chạm vào nướu như:chải răng,xỉa tăm hay thức ăn rắn…
a2-Chảy máu nướu cấp tính:là hiện tượng chảy máu ở giai đoạn viêm nướu cấp tính hoặc do nướu bị tổn thương đột ngột(như chải răng làm rách nướu),nướu chảy máu thình lình khi có kích thích nhẹ như trong trường hợp “viêm nướu hoại tử lở loét cấp”.
b-Nguyên nhân tổng quát:
Bất thình lình không do yếu tố cơ học nào cả hoặc kích thích nhỏ nhưng chảy máu rất nhiều khó kiểm soát.
Bệnh tổng quát ở đây thường là những bệnh về máu,có nhiều loại với nhiều nguyên nhân khác nhau,biểu hiện lâm sang khác nhau,nét chung là chảy máu bất thường ở da,cơ quan nội tạng,niêm mạc miệng…Những bệnh về máu có biểu hiện chảy máu nướu bất thường thường thấy như:
Dị tật ở các mạch máu(thiếu vitamine C hay dị ứng như bệnh ban xuất huyết Schonlein-Henoch).
Bệnh rối loạn tiểu cầu.
Chứng giảm Prothrombin huyết(thiếu vitamine K).
Chứng giảm sút ,yếu kém về đông máu,chứng giảm sút yếu tố đông máu của tiểu cầu(PF3).
Sử dụng nhiều chất salicylat,thuốc chống đông máu như Diconmarol,Heparine..
Có trường hợp chảy máu nướu theo chu kỳ kinh nguyệt,cơ thể suy yếu,ăn uống không đầy đủ cũng có thể làm chảy máu nướu đặc biệt khi chải răng.
2-Nướu đổi màu:
Là dấu chứng quan trọng của bệnh nướu.
Bình thường nướu có màu “ hồng san hô”.
Khi viêm mãn tính:đỏ sẫm hay đỏ xanh,màu xanh nhẹ do máu bị ứ đọng,giảm oxy huyết.
Khi viêm cấp:nướu đổi màu tùy theo cường độ viêm.Trong hầu hết trường hợp,khởi đầu nướu có màu đỏ thắm,nếu viêm cấp nặng màu đỏ thắm ngả sang màu hơi xám,cuối cùng xám trắng đục.
Nhiễm sắc kim loại:sử dụng hoặc tiếp xúc với kim loại nặng,điều trị bằng cách loại trừ những yếu tố kích thích tại chổ.
Nướu đổi màu do bệnh tổng quát:không đặc thù,cần có chẩn đoán phụ.
3-Thay đổi tính rắn chắc của nướu:
Nướu bình thường chắc và đàn hồi.
Trong viêm mản,có sự đấu tranh giữa yếu tố phá hủy và yếu tố sữa chữa,độ rắn của nướu được quy định bởi sự cân bằng của các yếu tố này.
Trong viêm mãn nướu có vẻ rắn chắc hơn viêm cấp.
4-Thay đổi về cấu trúc ở bề mặt nướu:
Nướu mất đi vẻ lấm tấm bề mặt,là dấu chứng khởi đầu của viêm nướu.
Những thay đổi tùy thuộc sự phù nề hay sự xơ hóa của nướu.
5-Thay đổi về vị trí của nướu:
Quan trọng và phổ biến là sự tụt nướu.
Tụt nướu có thể do viêm hoặc không viêm.
Nguyên nhân:
Tăng theo tuổi.
Chải răng ngang và mạnh
Sang chấn do khớp cắn.
Chỉnh hình răng.
Răng xoay,nghiêng,mọc chìa làm cho xương ổ mỏng,dễ bị tiêu hủy do sự cọ xát của bàn chải.
Tụt nướu gây ra:
Gốc chân răng có thể bị sâu răng tấn công.
Tạo điều kiện mòn lớp cement,lộ ngà răng gây tình trạng đau buốt do quá cảm ngà.
Mở rộng vùng kẽ răng tạo điều kiện mảng bám và vi khuẩn tập trung..
6-Thay đổi đường viền của nướu:
Làm nướu triển dưỡng.
Đường nứt Stillman:nướu bị nứt hình dấu phẩy.Nguyên nhân chưa được chứng minh rõ rang,có thể do chấn thương khớp cắn.
Đường viền MeCall:nướu triển dưỡng giống như cái phao,bao bọc thân răng.Nguyên nhân:chấn thương khớp cắn,kích thích cơ học tại chổ..